Thiết kế và phát triển Consolidated_B-24_Liberator

XB-24 đang bay

Nguồn gốc của chiếc Liberator xuất phát từ một yêu cầu vào năm 1938 của Không lực Lục quân Hoa Kỳ đề nghị hãng Consolidated tham gia sản xuất dưới giấy phép nhượng quyền chiếc B-17 trong một chương trình "Kế hoạch A" để mở rộng công nghiệp và sản xuất, tăng cường cho các yếu tố chủ yếu cho sức mạnh không quân.[5] Sau khi các viên chức cao cấp của công ty Consolidated, bao gồm cả Chủ tịch Reuben Fleet, viếng thăm xưởng của hãng Boeing tại Seattle, đã có quyết định đưa ra một thiết kế hiện đại hơn thay thế.[6] Tháng 1 năm 1939, Không lực Lục quân Hoa Kỳ chính thức mời Consolidated Aircraft[7] tham gia nghiên cứu thiết kế một kiểu máy bay ném bom có tầm bay xa, tốc độ và trần bay tốt hơn chiếc B-17.

Hợp đồng chế tạo chiếc nguyên mẫu được trao vào tháng 3 năm 1939, với yêu cầu là chiếc nguyên mẫu phải hoàn thành trước cuối năm. Thiết kế đơn giản nhưng tiên tiến vào thời đó. So với B-17 Flying Fortress, chiếc được đề nghị tên Kiểu 32 ngắn hơn, diện tích cánh nhỏ hơn 25% nhưng có sải cánh dài hơn 1,8 m (6 ft) và tải trọng lớn hơn. Trong khi chiếc B-17 sử dụng động cơ 9-xy lanh Wright R-1820 Cyclone, Consolidated dùng kiểu động cơ 2-hàng, 14-xy lanh Pratt & Whitney R-1830 Twin Wasp bố trí hình tròn công suất 1.000 mã lực (746 kW). Trọng lượng cất cánh tối đa đến 32.000 kg (70.547 lb) là lớn nhất vào thời đó. Consolidated cũng tích hợp các tính năng sáng tạo: là máy bay ném bom Mỹ đầu tiên dùng hệ thống hạ cánh ba bánh, cánh dài và mỏng với thiết kế "cánh kiểu Davis" hiệu quả, có thiết kế cánh loại tỉ lệ dài-rộng cao cho phép có hiệu quả nhiên liệu tối đa. Máy bay cũng được thiết kế cánh đuôi kép khá đặc trưng. Do các yếu tố thiết kế tinh vi, việc thử nghiệm trong hầm gió và các chương trình thí nghiệm sử dụng một kiểu sẵn có của Consolidated là Kiểu 31, một loại thủy phi cơ dân dụng hai động cơ, cung cấp các số liệu mở rộng về đặc tính bay của kiểu cánh Davis.[8]

Consolidated hoàn tất chiếc nguyên mẫu, được biết đến dưới tên XB-24, và nó sẵn sàng để bay chuyến bay đầu tiên hai ngày trước khi kết thúc năm 1939. Bảy chiếc thử nghiệm phát triển YB-24 khác bay vào năm 1940 và Consolidated bắt đầu chuẩn bị dây chuyền sản xuất.[9] Các đơn hàng đặt sớm, ngay trước khi chiếc XB-24 cất cánh, bao gồm 36 chiếc cho Không lực Lục quân Hoa Kỳ, 120 chiếc cho Không quân Pháp và 164 chiếc cho Không quân Hoàng gia Anh. Hầu hết những chiếc B-24 được sản xuất đầu tiên được gửi đến Anh Quốc, kể cả những chiếc do phía Pháp đặt hàng vì họ đã thất trận năm 1940. Tên gọi "Liberator", ban đầu được đặt cho những chiếc của Không quân Hoàng gia nhưng sau đó được Không lực Mỹ chấp nhận là tên chính thức của kiểu này.[10]

Thiết kế

Chiếc B-24 có một thân rộng rãi và cao (tạo cho nó biệt danh "Flying Boxcar", toa chở hàng bay)[11] được chế tạo quanh một khoang bom trung tâm chứa được 8.000 lb bom. Khoang được chia thành ngăn trước sau và lại được ngăn ra bằng một lối đi giữa, cũng là sống sườn của thân máy bay. Có lời than phiền chung về lối đi quá chật hẹp, và đôi khi cũng bị dèm pha là "Chiếc quan tài bay" (The Flying Coffin) vì lối ra vào máy bay duy nhất là từ phía sau, và đội bay cùng xạ thủ súng máy trước mũi không tài nào đi qua được nếu họ mang dù. Một dạng nắp khoang chứa bom khác thường kiểu "con lăn" cho phép rút vào thân khi mở ra, tạo lực cản khí động học ở mức tối thiểu, giúp duy trì được tốc độ cao ngay cả khi đang bay bên trên mục tiêu ném bom.[12]

Giống như chiếc B-17, chiếc B-24 trang bị một loạt các súng máy M2 Browning cỡ nòng.50 in ở phía đuôi, bụng, trên lưng, bên hông và trước mũi để phòng thủ chống lại sự tấn công từ máy bay tiêm kích đối phương. Tuy nhiên không giống B-17, tháp súng xoay có thể thu được vào trong thân khi không sử dụng, trong khi tháp súng của B-17 gắn cố định bên ngoài.

Sản xuất

Những chiếc B-24 đang được chế tạo tại dây chuyền Willow Run của hãng Ford

Việc sản xuất Liberator gia tăng ở một tốc độ ngạc nhiên trong những năm 19421943: Consolidated đã tăng gấp ba lần kích thước nhà máy của họ tại San Diego và xây dựng một nhà máy to hoàn toàn mới bên ngoài Fort Worth, Texas. Việc sản xuất cũng được tham gia bởi DouglasTulsa, Oklahoma vả North American xây dựng một nhà máy tại Dallas, Texas. Đây không phải là những hoạt động nhỏ, nhưng tất cả chúng đều trở nên nhỏ nhoi so với nhà máy xây mới bởi Ford trên đất trống tại Willow Run gần Detroit, vốn được khánh thành vào tháng 8 năm 1942. Đây là nhà máy to nhất Hoa Kỳ (330.000 m² hay 3.500.000 ft²), và là nhà máy lớn nhất ở khắp mọi nơi ngoại trừ Liên Xô.[13] Việc sản xuất hằng loạt bắt đầu vào tháng 8 năm 1943, và vào lúc cao điểm xưởng hoàn tất được 428 chiếc B-24 mỗi tháng. Nhiều phi công ngủ trên giường võng tạm trong khi chờ đợi chiếc B-24 "của họ" lăn bánh ra khỏi dây chuyền sản xuất. Mỗi nhà máy sản xuất B-24 được nhận diện bằng một mã sản xuất: Consolidated / San Diego (CO), Consolidated / Ft Worth (CF), Ford / Willow Run (FO), North American (NT) và Douglas, Tulsa (DT).

Vào tháng 4 năm 1942, phiên bản vận tải C-87 Liberator Express được đưa vào sản xuất tại Fort Worth. Nó có cửa để chất hàng to, không có tháp súng, có sàn trong khoang chứa bom để chứa hàng và các cửa sổ hông.

Kiểu đầu tiên được sản xuất hằng loạt, chiếc B-24D (Liberator III trong Không lực Hoàng gia) được đưa vào sử dụng đầu năm 1943; nó có động cơ tăng áp và trữ lượng nhiên liệu nhiều hơn. Thêm ba khẩu súng máy M2 Browning 12,7 mm (0,50 in) nâng tổng số vũ khí phòng vệ lên 10 khẩu súng máy. Với trọng lượng cất cánh tối đa lên đến 27.000 kg (59.524 lb), nó là chiếc máy bay nặng nhất thế giới, và chỉ có những chiếc máy bay ném bom Anh Quốc LancasterHalifax là so sánh được với nó.

Năm 1943, phiên bản Liberator được nhiều người cho là phiên bản "sau cùng" được giới thiệu. Chiếc B-24H dài hơn 0,25 m (10 in), bổ sung một tháp pháo vận hành bằng điện trước mũi để giảm sự mong manh do tấn công kiểu đối mặt, và được gắn bộ ngắm ném bom cải tiến, hệ thống lái tự động và hệ thống chuyển đổi nhiên liệu. Nhà máy của Consolidated, Douglas và Ford cùng sản xuất kiểu này, trong khi phiên bản được chế tạo tại Dallas bởi North American được đặt tên B-24G. Cả năm nhà máy cùng chuyển đổi sang sang kiểu gần như tương tự B-24J vào tháng 8 năm 1943. Những phiên bản B-24L và B-24M sau đó là những kiểu nhẹ hơn và khác biệt chủ yếu là ở vũ khí phòng thủ.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Consolidated_B-24_Liberator http://www.casa.gov.au/fsa/2000/jan/page49.pdf http://www.b24bestweb.com/ http://www.b24bestweb.com/b24bestweb-GOLD-CLUB-24.... http://www.chuckallan.com/history/History_44th.htm... http://info.detnews.com/history/story/index.cfm?id... http://www.navylib.com/ http://www.pacificwrecks.com/resources/tech/aircra... http://www.warbirdalley.com/b24.htm http://history.acusd.edu/gen/st/~jcollins/index.ht... http://www.hq.nasa.gov/office/pao/History/SP-468/c...